Môi trường – Kinhtekinhdoanh.com https://kinhtekinhdoanh.com Cập nhật tin tức kinh tế, phân tích thị trường, chiến lược kinh doanh và câu chuyện thành công. Fri, 29 Aug 2025 18:31:00 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhtekinhdoanh/2025/08/kinhtekinhdoanh.svg Môi trường – Kinhtekinhdoanh.com https://kinhtekinhdoanh.com 32 32 TP HCM lên kế hoạch chuyển đổi 400.000 xe máy sang xe điện cho tài xế công nghệ https://kinhtekinhdoanh.com/tp-hcm-len-ke-hoach-chuyen-doi-400-000-xe-may-sang-xe-dien-cho-tai-xe-cong-nghe/ Fri, 29 Aug 2025 18:30:57 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/tp-hcm-len-ke-hoach-chuyen-doi-400-000-xe-may-sang-xe-dien-cho-tai-xe-cong-nghe/

TP.HCM đặt mục tiêu chuyển đổi toàn bộ 400.000 xe máy xăng của tài xế công nghệ và giao hàng sang xe điện vào năm 2029. Đây là một phần trong kế hoạch kiểm soát khí thải chung của thành phố, nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí và hướng tới phát triển bền vững.

Nếu đề án được duyệt, từ đầu năm 2026, chỉ tài xế sử dụng xe điện mới được đăng ký mới với các ứng dụng chạy xe công nghệ
Nếu đề án được duyệt, từ đầu năm 2026, chỉ tài xế sử dụng xe điện mới được đăng ký mới với các ứng dụng chạy xe công nghệ

Viện Nghiên cứu và Phát triển TP.HCM (HIDS) đã hoàn thiện dự thảo đề án, trong đó đề xuất một lộ trình chuyển đổi cụ thể và các chính sách hỗ trợ cho tài xế. Theo đề án, đến năm 2029, thành phố sẽ giảm 100% lượng khí thải gây ô nhiễm và khí nhà kính từ nhóm phương tiện này.

Để đạt được mục tiêu này, HIDS đề xuất chia lộ trình chuyển đổi thành 4 giai đoạn. Giai đoạn 1 (từ nay đến tháng 12.2026) sẽ đạt 30% – tương đương khoảng 120.000 xe được chuyển đổi. Giai đoạn 2 (đến tháng 12.2027) đạt 50% – tương đương khoảng 200.000 xe. Tiếp theo là giai đoạn 3 (đến tháng 12.2028) sẽ chuyển đổi khoảng 320.000 xe, đạt 80% và tới tháng 12.2029 là thời điểm kết thúc giai đoạn 4 – hoàn thành chuyển đổi 400.000 phương tiện, đạt 100%.

Thạc sĩ Lê Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Tư vấn Ứng dụng Kinh tế (thuộc HIDS) cho biết, việc chuyển đổi 400.000 xe hai bánh của tài xế công nghệ sang xe điện là bước đi mang tính chiến lược, tác động sâu rộng đến nhiều khía cạnh như nhân lực, chuỗi cung ứng và hạ tầng đô thị. Do đó, cần một hành lang pháp lý rõ ràng, đủ mạnh để đảm bảo trách nhiệm và phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, doanh nghiệp vận tải công nghệ, nhà sản xuất cũng như đội ngũ tài xế.

HIDS đề xuất từ tháng 1.2026 bắt đầu áp dụng những chính sách ưu đãi đồng thời ngừng cho phép đăng ký mới phù hiệu (ngừng ký hợp đồng mới) đối với tài xế xe máy xăng có nhu cầu tham gia cung cấp dịch vụ trên các nền tảng gọi xe công nghệ. Các tài xế sử dụng xe xăng đăng ký và được chấp nhận trước thời điểm này vẫn hoạt động bình thường và cần có kế hoạch chuyển đổi từ xe xăng sang xe điện.

Trong khi đó, từ tháng 1.2027, hạn chế xe xăng hoạt động trong giờ cao điểm tại các vùng phát thải thấp được thành phố quy định. Từ tháng 1.2028, siết chặt chính sách kiểm soát khí thải theo quy định. Từ tháng 12.2029 sẽ cấm hoàn toàn xe xăng tham gia cung cấp dịch vụ trên các nền tảng gọi xe công nghệ.

Để triển khai đề án, thành phố sẽ trao quyền cho UBND cấp cơ sở tạm thời mở ‘làn xanh’ chỉ dành cho xe điện nếu tỷ lệ điện hóa giao thông trên địa bàn cao hơn 70% sau mỗi năm báo cáo, hoặc trao quyền cho HĐND cấp cơ sở ban hành nghị quyết phủ xanh giao thông toàn địa bàn nếu tỷ lệ điện hóa giao thông trên địa bàn cao hơn 90% sau mỗi năm báo cáo để tạo thêm áp lực tuân thủ.

Theo tính toán, nếu TP thay thế toàn bộ khoảng 400.000 xe máy xăng của các tài xế bằng xe máy điện, lượng khí CO2 có thể giảm tới 750 tấn trong vòng 5 năm, đồng thời giảm đáng kể NOx và bụi mịn PM2.5, góp phần cải thiện chất lượng không khí đô thị. Một xe điện 2 bánh chỉ tiêu tốn từ 3.000 – 5.000 đồng cho mỗi lần sạc, đủ cung cấp năng lượng di chuyển từ 50 – 80 km, thấp hơn đáng kể so với chi phí xăng dầu.

HIDS đề xuất TP.HCM triển khai đồng loạt nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực như: Miễn 100% phí trước bạ, phí đăng ký biển số và thuế giá trị gia tăng cho xe điện 2 bánh do tài xế công nghệ khi mua mới trong suốt giai đoạn triển khai đề án từ tháng 1.2026 đến tháng 12.2029; cung cấp khoản vay hỗ trợ mua xe và pin dự phòng với thời hạn vay linh hoạt từ 24 tháng đến 30 tháng, lãi suất ưu đãi thấp hơn mặt bằng thị trường thông qua các ngân hàng thương mại hợp tác, các tổ chức tín dụng vi mô.

Sau khi đã cân bằng cả chi phí vận hành và chi phí khấu hao của hai loại xe, HIDS tính toán tài xế sẽ tiết kiệm được từ 300.000 đồng – 400.000 đồng hàng tháng nhờ chuyển sang xe điện. Sau một năm, khoản tiết kiệm này có thể lên đến gần 5 triệu. Thêm vào đó, công nghệ pin lithium-ion hiện nay đang phát triển một cách nhanh chóng. Nhờ vậy, dung lượng pin và tuổi thọ pin đang không ngừng được cải thiện. Vì thế, trong tương lai lâu dài, người sử dụng xe nói chung và tài xế công nghệ nói riêng sẽ được hưởng lợi về mặt kinh tế, thậm chí có thể hoàn vốn mua xe điện sau vài năm.

]]>
Nga phát triển công nghệ biến khí thải thành nhiên liệu sạch https://kinhtekinhdoanh.com/nga-phat-trien-cong-nghe-bien-khi-thai-thanh-nhien-lieu-sach/ Wed, 27 Aug 2025 23:42:53 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/nga-phat-trien-cong-nghe-bien-khi-thai-thanh-nhien-lieu-sach/

Công nghệ tiên tiến dựa trên vi tảo của Nga: Giải pháp kép cho việc giảm phát thải khí carbon và sản xuất nhiên liệu sạch

Một nhóm các nhà khoa học Nga từ Đại học Bách khoa Saint Petersburg Peter Đại đế (SPbPU) đã đạt được thành tựu đáng kể trong lĩnh vực năng lượng bền vững. Họ đã phát triển thành công một công nghệ sử dụng vi tảo để hấp thụ khí carbon dioxide từ khí thải công nghiệp và đồng thời tạo ra biohydrogen – một dạng nhiên liệu sạch đầy hứa hẹn. Công nghệ này đã được công bố trên tạp chí International Journal of Hydrogen Energy.

Quá trình hoạt động của công nghệ này bắt đầu bằng việc dẫn khí thải công nghiệp qua một ao sinh học đặc biệt. Tại đây, vi tảo sẽ hấp thụ khí carbon dioxide trong quá trình quang hợp và tạo ra sinh khối. Sau đó, sinh khối này được sử dụng để thu được biohydrogen thông qua quá trình lên men tối. Theo bà Natalia Politaeva, giáo sư tại Trường Cao đẳng Kỹ thuật Thủy lực và Điện lực thuộc SPbPU, công nghệ này đại diện cho một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực năng lượng bền vững.

“Tương lai của năng lượng bền vững không phải là đấu tranh chống thiên nhiên, mà là phối hợp với thiên nhiên. Vi tảo là những đồng minh nhỏ bé có thể biến chất thải công nghiệp thành năng lượng sạch”, bà Politaeva cho biết. Biohydrogen thu được từ công nghệ này có thể được sử dụng làm nhiên liệu cho nhiều mục đích năng lượng khác nhau, bao gồm tạo ra điện và nhiệt trong sản xuất, cũng như trong pin nhiên liệu hydro hoặc để tạo ra nhiên liệu sinh học cho ô tô.

Các nhà nghiên cứu SPbPU tin rằng hệ thống này có thể đặc biệt hữu ích đối với các nhà máy nhiệt điện than, vốn là nguồn phát thải carbon dioxide lớn nhất. Theo kỹ sư Ksenia Velmozhina, một nhà máy nhiệt điện than 500MW thải ra 11.400 tấn carbon dioxide mỗi ngày. Việc tích hợp công nghệ của họ có thể giúp giảm tiền phạt phát thải và biến chất thải thành nhiên liệu hữu ích.

Hơn nữa, hệ thống này không chỉ giúp giảm phát thải mà còn có thể tăng hiệu suất năng lượng của doanh nghiệp lên 20-30%. Bất kỳ quốc gia nào có lượng khí thải công nghiệp lớn có thể áp dụng phương pháp này. Một trong những ưu điểm nổi bật của hệ thống này là khả năng kết hợp ba chức năng cùng một lúc: thu giữ carbon dioxide, xử lý sinh khối và tạo ra hydro.

Công nghệ mới này rất độc đáo vì nó mang đến bản chất khép kín và tính bền vững. Hiện tại, các nhà khoa học đang tập trung vào việc thử nghiệm hệ thống tại một cơ sở công nghiệp và điều chỉnh công nghệ cho phù hợp với các điều kiện khí hậu khác nhau. Họ cũng có kế hoạch mở rộng hệ thống này bằng cách bổ sung chức năng xử lý nước thải và chiết xuất các sản phẩm sinh học có giá trị gia tăng cao.

Đây là một giải pháp đầy hứa hẹn cho tương lai năng lượng bền vững, cho phép các doanh nghiệp công nghiệp giảm thiểu tác động môi trường trong khi tạo ra nhiên liệu sạch và hiệu quả.

]]>
Hà Nội cần chọn lọc dự án đầu tư để phát triển bền vững https://kinhtekinhdoanh.com/ha-noi-can-chon-loc-du-an-dau-tu-de-phat-trien-ben-vung/ Mon, 25 Aug 2025 06:56:35 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/ha-noi-can-chon-loc-du-an-dau-tu-de-phat-trien-ben-vung/

Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVIII đang là tâm điểm của sự quan tâm rộng rãi từ người dân, và việc thu hút đầu tư để thúc đẩy sự phát triển của Thủ đô là một chủ trương được nhiều người ủng hộ. Với góc nhìn của một người dân gắn bó lâu dài với Hà Nội, tôi đánh giá cao mục tiêu thu hút đầu tư nhưng nhấn mạnh rằng quá trình này cần được thực hiện một cách có chọn lọc và bền vững. Điều này không chỉ đảm bảo sự phát triển kinh tế mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Không đưa khách du lịch đến vùng đang có bão để đảm bảo an toàn
Không đưa khách du lịch đến vùng đang có bão để đảm bảo an toàn

Một trong những mục tiêu quan trọng mà tôi muốn nhấn mạnh trong Dự thảo Văn kiện là thu hút các dự án đầu tư không chỉ phục vụ mục đích lợi nhuận hay tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà còn tạo ra việc làm chất lượng cao cho người dân. Việc làm tốt với thu nhập ổn định sẽ giúp cải thiện đời sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững và hài hòa.

Ngoài ra, vấn đề môi trường luôn là mối quan tâm hàng đầu của người dân Thủ đô. Hà Nội đã phải đối mặt với nhiều thách thức về môi trường, do đó, tôi kêu gọi các dự án đầu tư cần cam kết bảo vệ môi trường một cách nghiêm ngặt. Các dự án phải đảm bảo không gây ra ô nhiễm không khí, nguồn nước và cảnh quan, nhằm giảm thiểu các áp lực lên môi trường và đảm bảo phát triển bền vững.

Một khía cạnh quan trọng khác mà người dân kỳ vọng là khả năng chuyển giao công nghệ tiên tiến từ các dự án đầu tư. Các nhà đầu tư không chỉ mang lại vốn và máy móc mà còn chia sẻ tri thức và kỹ năng, giúp nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Điều này sẽ giúp Hà Nội không chỉ là nơi gia công hay lắp ráp với giá trị gia tăng thấp mà còn trở thành một trung tâm sản xuất hiện đại, tự chủ và đổi mới sáng tạo.

Để hiện thực hóa mục tiêu này, việc áp dụng các “ưu đãi xanh” cho các dự án thân thiện với môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo hoặc áp dụng công nghệ sạch là một hướng đi đáng được hoan nghênh. Những ưu đãi này không chỉ khuyến khích mà còn tạo động lực mạnh mẽ cho các nhà đầu tư có tầm nhìn dài hạn và có trách nhiệm với cộng đồng và môi trường.

Cuối cùng, người dân Hà Nội tin rằng, với việc lựa chọn đầu tư thông minh, đặt lợi ích của cộng đồng và phát triển bền vững lên hàng đầu, Hà Nội sẽ đạt được sự phát triển toàn diện. Điều này không chỉ mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân mà còn góp phần vào sự phát triển lâu dài và bền vững của Thủ đô. Việc này đòi hỏi sự hợp tác và cam kết của tất cả các bên, từ chính quyền đến doanh nghiệp và cộng đồng, nhằm xây dựng một tương lai tươi sáng và bền vững cho Hà Nội.

https://tovancongnhan.vn/tin-nhieu-nganh-nghe-se-co-them-thi-trang-dac-thu-de-xuat-cac-do-thi-nen-gia-tang-suc-mua-t3a36069.html

]]>
Hà Nội tính cấm xe máy chạy xăng, xe điện có giải được bài toán? https://kinhtekinhdoanh.com/ha-noi-tinh-cam-xe-may-chay-xang-xe-dien-co-giai-duoc-bai-toan/ Sat, 23 Aug 2025 23:32:07 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/ha-noi-tinh-cam-xe-may-chay-xang-xe-dien-co-giai-duoc-bai-toan/

Gần đây, thông tin về kế hoạch cấm xe máy chạy bằng xăng tại Hà Nội từ năm tới đã thu hút sự quan tâm của nhiều người. Khi được hỏi về vấn đề này, đồng chí A tỏ ra rất hào hứng và kỳ vọng rằng việc cấm xe máy chạy bằng xăng sẽ giúp giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường ở Hà Nội. Tuy nhiên, khi các vấn đề liên quan đến việc thực hiện kế hoạch này được đặt ra, đồng chí A bắt đầu cảm thấy bối rối và không có câu trả lời thuyết phục.

Một trong những vấn đề được đặt ra là việc xây dựng hệ thống sạc điện rộng lớn để phục vụ cho xe điện. Việc này đòi hỏi một diện tích đất đáng kể để xây dựng các khu sạc điện. Tuy nhiên, đồng chí A không có giải pháp cụ thể về việc sẽ lấy đất đâu để xây dựng các khu sạc điện này. Mặt khác, việc sử dụng phương tiện công cộng cũng được đặt ra, nhưng hiện tại, hệ thống giao thông công cộng ở Hà Nội chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người dân.

Theo số liệu thống kê, trung bình mỗi gia đình ở Hà Nội sở hữu một chiếc xe gắn máy, và việc cấm xe máy chạy bằng xăng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ. Chưa kể đến hàng triệu người ngoại tỉnh đang chạy xe dịch vụ kiếm sống ở Hà Nội, và việc chuyển sang sử dụng xe điện có thể không phải là một giải pháp khả thi.

Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan đến an toàn của xe điện cũng được đặt ra. Các vụ cháy nổ xe điện đã được ghi nhận, và việc hàng ngàn, hàng triệu xe sạc điện cùng lúc có thể dẫn đến tình trạng quá tải của hệ thống điện, gây ra các vấn đề nghiêm trọng. Để đảm bảo an toàn, cần có các giải pháp cụ thể và hiệu quả để giải quyết các vấn đề này.

Trước những vấn đề trên, cần phải có một lộ trình và chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi thực hiện việc cấm xe máy chạy bằng xăng. Một kế hoạch tổng thể và chi tiết cần được xây dựng để đảm bảo rằng việc cấm xe máy chạy bằng xăng sẽ không gây ra các vấn đề mới cho người dân. Việc này đòi hỏi sự tham gia của các chuyên gia, các cơ quan chức năng và người dân để tìm ra giải pháp tốt nhất cho tình hình ô nhiễm môi trường ở Hà Nội.

Hà Nội đang đối mặt với tình hình ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, và việc tìm ra giải pháp để giảm thiểu tình trạng này là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc cấm xe máy chạy bằng xăng cần được thực hiện một cách thận trọng và có kế hoạch cụ thể để đảm bảo rằng quyền lợi của người dân được bảo vệ và các vấn đề mới không được tạo ra.

Để biết thêm thông tin về kế hoạch cấm xe máy chạy bằng xăng tại Hà Nội, vui lòng truy cập đây để xem các tin tức mới nhất về vấn đề này.

Hiện tại, các cơ quan chức năng đang tích cực nghiên cứu và xây dựng kế hoạch để thực hiện việc cấm xe máy chạy bằng xăng tại Hà Nội. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc cần phải làm để đảm bảo rằng việc này sẽ được thực hiện một cách hiệu quả và không gây ra các vấn đề mới cho người dân.

]]>
Kinh nghiệm của Bắc Kinh trong cấm xe máy xăng, phát triển giao thông xanh https://kinhtekinhdoanh.com/kinh-nghiem-cua-bac-kinh-trong-cam-xe-may-xang-phat-trien-giao-thong-xanh/ Sat, 09 Aug 2025 13:45:41 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/kinh-nghiem-cua-bac-kinh-trong-cam-xe-may-xang-phat-trien-giao-thong-xanh/

PGS.TS Shaojun Zhang, Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc), đã chia sẻ về các giải pháp mà Bắc Kinh đã triển khai khi cấm xe máy xăng và có thể hữu ích với Hà Nội. Bắc Kinh là thành phố đầu tiên ở Trung Quốc áp dụng cấm xe máy xăng, bắt đầu từ năm 1986 trong vành đai 3, với lý do chính là tiếng ồn quá mức, lượng phát thải ô nhiễm cao và nguy cơ cao gây ra tai nạn giao thông. Đến năm 2000, khu vực cấm được mở rộng đến vành đai 4. Ngoài ra, còn có nhiều tuyến đường bị cấm xe máy xăng lưu thông. Từ năm 2014, xe máy xăng đăng ký ở các địa phương khác không được phép di chuyển trong khu vực vành đai 6 của Bắc Kinh, rộng hơn 2.000 km2.

Bên cạnh đó, Cục Sinh thái và Môi trường Bắc Kinh đã áp dụng các yêu cầu nghiêm ngặt hơn trong việc đăng ký và kiểm định hàng năm xe máy xăng. Ông Zhang cho rằng việc hạn chế xe máy xăng thường bắt đầu ở một số khu vực trung tâm, sau đó mở rộng ra khu đô thị lớn và phải cung cấp phương tiện thay thế hợp lý. Các phương tiện thay thế gồm: Sử dụng xe máy điện với ưu thế nổi bật là chi phí thấp hơn và sạch hơn; ôtô cá nhân; phát triển giao thông công cộng, đặc biệt là tàu điện ngầm ở thành phố lớn. Nếu có thể cung cấp đủ các lựa chọn thay thế hợp lý, người dân sẽ có xu hướng ủng hộ các chính sách hạn chế xe máy.

Hà Nội mù mịt ngày 11/12/2024 do tác động của ô nhiễm và thời tiết. Ảnh: Giang Huy
Hà Nội mù mịt ngày 11/12/2024 do tác động của ô nhiễm và thời tiết. Ảnh: Giang Huy

Sau gần 30 năm cấm xe máy xăng, chất lượng không khí của Bắc Kinh đã cải thiện đáng kể. Trong thập kỷ qua, Bắc Kinh đã tăng cường kiểm soát ô nhiễm không khí, tập trung vào PM2.5 như là chất ô nhiễm chính, đặc biệt là bằng cách siết chặt kiểm soát khí thải từ phương tiện giao thông. Hiện nay, nồng độ PM2.5 trung bình năm tại Bắc Kinh đã giảm xuống còn khoảng 30 microgam/m3.

Ông Zhang cũng chia sẻ về các biện pháp mà Hà Nội có thể áp dụng để triển khai hiệu quả việc cấm xe máy trong vành đai 1, khu vực trung tâm Thủ đô. Ông cho rằng việc kiểm soát ô nhiễm xe máy xăng hiệu quả cần chiến lược đa phương diện. Trước tiên, cần có các chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng về tác động của xe máy xăng đến chất lượng không khí, đặc biệt là lượng phát thải và tiếng ồn cao.

Thứ hai, cần có các biện pháp từng bước như: Hạn chế dần việc bán các mẫu xe phát thải cao và thiết lập khu vực cấm xe máy xăng, qua đó cân bằng giữa hiệu quả chính sách và khả năng chấp nhận của người dân. Điều quan trọng nhất ông cho rằng các biện pháp này phải đi kèm với việc mở rộng hệ thống giao thông công cộng tin cậy và thúc đẩy phương tiện thay thế sạch hơn như xe máy điện, đảm bảo nhu cầu đi lại của người dân vẫn được đáp ứng đồng thời giảm phát thải.

Để thúc đẩy việc chuyển đổi, Bắc Kinh chủ yếu dựa vào trợ cấp trong nước khi mua xe điện, hiện dừng từ sau năm 2023; hạn ngạch biển số và trợ cấp cho hạ tầng sạc để thúc đẩy sử dụng xe điện. Ông Zhang cũng gợi ý về việc phát triển hạ tầng trạm sạc của Bắc Kinh. Việc xây dựng hạ tầng trạm sạc đòi hỏi sự phối hợp chính sách giữa nhiều cơ quan.

Trước hết, Trung Quốc hiện quy định bắt buộc lắp đặt cọc sạc tại các khu chung cư xây mới và một số khu dân cư tương đối mới. Với các khu dân cư cũ gặp khó khăn trong việc tiếp cận sạc điện, nhiều công ty đã triển khai các trạm sạc công cộng, bao gồm cả trạm sạc nhanh công suất lớn tại các trung tâm thương mại, đầu mối giao thông và trụ sở doanh nghiệp.

Cuối cùng, ông Zhang cũng đưa ra khuyến nghị về việc giảm phát thải và giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí ở Hà Nội. Ông cho rằng hai phần ba bụi mịn PM2.5 ở Hà Nội đến từ các nguồn bên ngoài, vì vậy cần có cơ chế phối hợp phòng chống ô nhiễm khu vực. Cách tiếp cận này đã chứng minh hiệu quả trong chiến dịch kiểm soát không khí sạch cho Thế vận hội Bắc Kinh 2008.

]]>
Sửa quy định về đất nông nghiệp, gỡ vướng về phí chuyển đổi đất https://kinhtekinhdoanh.com/sua-quy-dinh-ve-dat-nong-nghiep-go-vuong-ve-phi-chuyen-doi-dat/ Mon, 28 Jul 2025 09:26:36 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/sua-quy-dinh-ve-dat-nong-nghiep-go-vuong-ve-phi-chuyen-doi-dat/

Ngày 10/7, tại Hà Nội, Bộ Giao thông Vận tải đã tổ chức lễ ký kết một dự án quan trọng, với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Ông Lê Văn Bình, Phó Cục trưởng Cục Quản lý đất đai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, với 84% diện tích đất tự nhiên là đất nông nghiệp, chính sách đất đai đóng vai trò nền tảng quan trọng cho sự phát triển của ngành nông nghiệp.

Chính sách đất đai mới góp phần phát triển nông nghiệp - Ảnh 1
Chính sách đất đai mới góp phần phát triển nông nghiệp – Ảnh 1

Tuy nhiên, một số tồn tại trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp đã được chỉ ra tại Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Các quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 18 đã được thể chế hóa trong Luật Đất đai năm 2024 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, hạn mức giao đất nông nghiệp đã được nâng lên. Cụ thể, hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho cá nhân không quá 10 ha đối với xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 30 ha đối với xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.

Ông Lê Văn Bình cũng cho biết, thời hạn sử dụng đất cũng đã được nâng lên so với trước kia. Người trực tiếp sản xuất nông nghiệp được Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất (đối với phần diện tích trong hạn mức giao đất) với thời hạn là 50 năm, khi hết thời hạn này, họ được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định mà không phải làm thủ tục gia hạn. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, hợp tác sản xuất, kinh doanh bằng quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất…

Liên quan đến vấn đề chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, Luật Đất đai 2024 cho phép cá nhân và doanh nghiệp mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp lên không quá 15 lần hạn mức giao đất. Luật cũng mở rộng đối tượng được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp cho tổ chức kinh tế; cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp được nhận chuyển nhượng đất trồng lúa trong hạn mức được giao đất nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có năng lực về vốn, khoa học kỹ thuật có quyền tiếp cận đất đai, đầu tư sản xuất nông nghiệp hàng hóa, hạn chế tình trạng bỏ hoang hoặc sử dụng đất nông nghiệp manh mún không hiệu quả.

Tuy nhiên, một số người dân phản ánh khi chuyển đổi mục đích sử dụng phải nộp tiền nhiều. Để giải quyết vướng mắc liên quan đến mức thu tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang phối hợp với Bộ Tài chính để điều chỉnh cách tính. Ông Mai Văn Phấn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý đất đai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, Luật Đất đai 2024 đã xóa bỏ khung giá đất, đồng thời giao cho địa phương trách nhiệm ban hành bảng giá đất phù hợp với thực tiễn, áp dụng từ ngày 1/1/2026. Tuy nhiên, hiện nhiều địa phương chưa kịp thời cập nhật biến động thị trường, dẫn đến bảng giá đất không sát với thực tế.

Để khắc phục vấn đề này, ông Mai Văn Phấn cho hay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có văn bản đề nghị các địa phương: xây dựng bảng giá đất sát thực tế, đánh giá tác động của thị trường và tiềm năng phát triển kinh tế – xã hội; theo dõi và cập nhật thường xuyên dữ liệu giá đất, tổ chức hệ thống quản lý thông tin chặt chẽ. Như vậy, tới đây, các địa phương cần phải đẩy nhanh tiến độ xây dựng bảng giá đất để áp dụng từ ngày 1/1/2026 theo quy định của Luật Đất đai 2024, đồng thời tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận đất đai một cách thuận lợi.

]]>
Trung Quốc xây đập thủy điện lớn nhất thế giới trên cao nguyên Tây Tạng https://kinhtekinhdoanh.com/trung-quoc-xay-dap-thuy-dien-lon-nhat-the-gioi-tren-cao-nguyen-tay-tang/ Sat, 26 Jul 2025 22:59:15 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/trung-quoc-xay-dap-thuy-dien-lon-nhat-the-gioi-tren-cao-nguyen-tay-tang/

Trung Quốc đã chính thức khởi công xây dựng một con đập thủy điện khổng lồ trên cao nguyên Tây Tạng, với tham vọng biến nó trở thành một trong những cơ sở thủy điện lớn nhất thế giới. Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường đã tuyên bố bắt đầu dự án vào ngày 19/7 tại thành phố Nyingchi, khu tự trị Tây Tạng.

Dự án nằm ở hạ lưu sông Yarlung Tsangpo, một dòng sông quan trọng chảy qua Tây Tạng và sau đó trở thành sông Brahmaputra, chảy qua Ấn Độ và Bangladesh trước khi đổ ra biển. Dự án này đã được Bắc Kinh lên kế hoạch từ năm 2020 như một phần của kế hoạch 5 năm nhằm khai thác tiềm năng thủy điện của cao nguyên Tây Tạng. Sau khi được phê duyệt vào tháng 12 năm ngoái, dự án đã sẵn sàng để triển khai.

Với công suất dự kiến đạt 300 tỷ kilowatt-giờ điện mỗi năm, gấp 3 lần công suất của đập Tam Hiệp, dự án này được cho là lớn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực thủy điện. Tuy nhiên, dự án đã gây ra lo ngại tại Ấn Độ và Bangladesh về ảnh hưởng đến an ninh nguồn nước và lương thực, cũng như việc di dời dân cư và tác động môi trường.

Trung Quốc đã khẳng định rằng dự án đã trải qua đánh giá khoa học nghiêm ngặt và sẽ không gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sinh thái, ổn định địa chất hay quyền sử dụng nguồn nước của các quốc gia hạ lưu. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng cho biết rằng dự án có thể hỗ trợ phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu tại các khu vực hạ lưu.

Dự án này sẽ bao gồm 5 nhà máy thủy điện bậc thang, với tổng mức đầu tư ước tính khoảng 1.200 tỷ nhân dân tệ (167 tỷ USD). Dự án chủ yếu sẽ cung cấp điện ra ngoài Tây Tạng, đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu sử dụng trong khu vực.

Tập đoàn China Yajiang, một doanh nghiệp nhà nước mới, đã được thành lập để làm chủ đầu tư dự án. Dự án này đã thúc đẩy Ấn Độ đẩy nhanh tiến độ các dự án thủy điện của riêng mình trên sông Brahmaputra tại Arunachal Pradesh để khẳng định quyền sử dụng nguồn nước.

]]>
Hà Nội đổi mới không gian xanh, tiến tới đô thị Net Zero vào năm 2050 https://kinhtekinhdoanh.com/ha-noi-doi-moi-khong-gian-xanh-tien-toi-do-thi-net-zero-vao-nam-2050/ Fri, 25 Jul 2025 06:09:04 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/ha-noi-doi-moi-khong-gian-xanh-tien-toi-do-thi-net-zero-vao-nam-2050/

Việc dỡ bỏ hàng rào sắt tại Công viên Thống Nhất là một bước tiến quan trọng trong việc kiến tạo một đô thị thân thiện và hiện đại, lấy con người làm trung tâm. Hơn 650m hàng rào sắt đã được tháo dỡ, giúp công viên này trở nên cởi mở và thân thiện hơn. Công viên Thống Nhất giờ đây trở thành biểu tượng cho nỗ lực kiến tạo không gian công cộng thân thiện, kết nối và bền vững của Thành phố Hà Nội.

Trước đây, hàng rào sắt khiến Công viên Thống Nhất giống như một ‘ốc đảo’ biệt lập giữa lòng Hà Nội. Nhưng giờ đây, không gian vốn bị bó hẹp đã trở nên cởi mở và thân thiện hơn. Người dân có thể dễ dàng tiếp cận công viên, tận hưởng không gian xanh và các tiện ích trong công viên. Sự thay đổi này không chỉ mang lại lợi ích cho người dân mà còn đóng góp vào việc xây dựng hình ảnh một thành phố thân thiện và hiện đại.

Nhiều người dân cho rằng việc dỡ bỏ hàng rào sắt là cần thiết và đáng làm. Ông Lê Huy Quang, cư dân phường Văn Miếu – Quốc Tử Giám, TP. Hà Nội, cho rằng hàng rào này đáng ra phải phá đi từ lâu rồi, để tạo không gian thoáng đãng hơn cho người dân. Theo ông, việc này sẽ giúp tăng cường sự gắn kết giữa người dân và không gian công cộng, đồng thời tạo điều kiện cho các hoạt động ngoài trời lành mạnh.

Tuy nhiên, việc dỡ bỏ hàng rào sắt cũng đặt ra thách thức trong việc quản lý và bảo vệ không gian công cộng. Tình trạng xả rác bừa bãi, tiếng ồn kéo dài, lấn chiếm không gian chung để tổ chức ăn uống, vui chơi tự phát… có thể làm phai mờ ý nghĩa của một không gian sinh thái. Để giải quyết vấn đề này, cần có sự quản lý đồng bộ và ý thức của mỗi người dân.

Chị Phạm Thị Lan, cư dân phường Cầu Giấy, TP Hà Nội, cho rằng an ninh an toàn và không gian thoải mái là điều quan trọng nhất khi người dân đến công viên. “Chúng tôi mong muốn có một không gian xanh sạch đẹp để giải trí và thư giãn. Vì vậy, mỗi người dân cần có ý thức bảo vệ không gian công cộng này”, chị Lan nói.

KTS Phạm Thanh Tùng, Chánh văn phòng Hội Kiến trúc sư Việt Nam, cho rằng việc cải tạo công viên, vườn hoa, phá bỏ hàng rào để tạo không gian công cộng thân thiện hơn là chủ trương rất đúng đắn. Điều này giúp con người được hòa mình vào không gian xanh và tạo môi trường sống tốt hơn. Ông cũng nhấn mạnh rằng việc này cần được thực hiện một cách bài bản và có kế hoạch cụ thể để đảm bảo hiệu quả lâu dài.

TS – KTS Phan Đăng Sơn, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam, cũng cho rằng bỏ hàng rào là xu hướng của thế giới và giúp thành phố trở nên cởi mở và giao thoa giữa hoạt động và nơi giải trí. Ông đánh giá cao nỗ lực của Thành phố Hà Nội trong việc kiến tạo không gian công cộng thân thiện và hiện đại.

Nhìn chung, việc dỡ bỏ hàng rào sắt tại Công viên Thống Nhất là một bước tiến quan trọng trong việc kiến tạo một đô thị thân thiện và hiện đại. Tuy nhiên, để duy trì ‘lá phổi xanh’ này, ngoài sự đầu tư của chính quyền, mỗi người dân đều cần có trách nhiệm bảo vệ không gian công cộng. Sự hợp tác và đồng lòng của cả cộng đồng sẽ giúp Công viên Thống Nhất trở thành một biểu tượng cho sự phát triển bền vững và thân thiện của thành phố.

]]>
Thách thức an ninh phi truyền thống ở vùng dân tộc thiểu số Việt Nam https://kinhtekinhdoanh.com/thach-thuc-an-ninh-phi-truyen-thong-o-vung-dan-toc-thieu-so-viet-nam/ Wed, 23 Jul 2025 12:21:12 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/thach-thuc-an-ninh-phi-truyen-thong-o-vung-dan-toc-thieu-so-viet-nam/

Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) tại Việt Nam hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn từ các yếu tố an ninh phi truyền thống. Những thách thức này bao gồm biến đổi khí hậu, dịch bệnh, tình trạng di cư tự do, buôn bán người, tội phạm và khủng bố. Sự tác động của các yếu tố này không chỉ dừng lại ở việc ảnh hưởng đến an ninh quốc gia mà còn gây ra những cản trở đáng kể đối với sự phát triển bền vững của các vùng DTTS.

Trước hết, biến đổi khí hậu đang gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của đồng bào DTTS. Việc thay đổi các điều kiện khí hậu dẫn đến tình trạng thiên tai thường xuyên hơn, gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người dân. Bên cạnh đó, dịch bệnh cũng là một thách thức lớn, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vừa qua, đã phơi bày những điểm yếu trong hệ thống y tế và năng lực phòng chống dịch bệnh tại một số vùng DTTS.

Tình trạng di cư tự do cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Nhiều người dân từ các vùng DTTS di cư đến các khu vực thành thị để tìm kiếm cơ hội việc làm, dẫn đến việc hình thành các khu slum nghèo đói và tiềm ẩn nhiều rủi ro về an sinh xã hội. Thêm vào đó, tình trạng buôn bán người và tội phạm xuyên biên giới đang ngày càng diễn biến phức tạp, nhắm vào các nhóm dân cư dễ bị tổn thương như phụ nữ và trẻ em từ các vùng DTTS.

Để giải quyết những thách thức này, đòi hỏi những chính sách đồng bộ và toàn diện, phù hợp với đặc thù của từng vùng DTTS. Các chính sách này cần tập trung vào việc bảo đảm an sinh xã hội, ổn định và phát triển bền vững. Thứ nhất, cần tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, dịch vụ công và năng lực y tế tại các vùng DTTS để cải thiện chất lượng cuộc sống và khả năng chống chịu của người dân trước các cú sốc từ bên ngoài.

Thứ hai, việc phát triển kinh tế – xã hội cần được ưu tiên, thông qua hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, phát triển du lịch cộng đồng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc khởi nghiệp tại các vùng DTTS. Sự phát triển kinh tế không chỉ giúp giảm nghèo mà còn góp phần giữ vững an ninh quốc gia.

Thứ ba, cần tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Điều này không chỉ bao gồm việc hỗ trợ các hoạt động tái tạo rừng, phục hồi hệ sinh thái mà còn là việc nâng cao nhận thức của người dân về tác động của biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó.

Cuối cùng, sự tham gia của cộng đồng và việc đảm bảo quyền, lợi ích của đồng bào DTTS trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách là cực kỳ quan trọng. Cần có các cơ chế và kênh thông tin để người dân có thể tham gia đóng góp ý kiến và giám sát việc thực hiện chính sách.

Nhìn chung, giải quyết những thách thức an ninh phi truyền thống tại các vùng DTTS đòi hỏi một tiếp cận toàn diện và bền vững. Bằng việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường và nâng cao năng lực cho người dân, Việt Nam có thể đảm bảo ổn định, an ninh và phát triển bền vững tại các vùng DTTS, từ đó góp phần xây dựng một đất nước phát triển toàn diện và thịnh vượng.

]]>
4 trụ cột chính sách giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tài chính bền vững https://kinhtekinhdoanh.com/4-tru-cot-chinh-sach-giup-doanh-nghiep-nho-va-vua-tiep-can-tai-chinh-ben-vung/ Mon, 21 Jul 2025 23:48:11 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/4-tru-cot-chinh-sach-giup-doanh-nghiep-nho-va-vua-tiep-can-tai-chinh-ben-vung/

Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong nền kinh tế Việt Nam là không thể phủ nhận. Các DNNVV đóng góp khoảng 45% vào tổng sản phẩm nội địa (GDP) và tạo việc làm cho tới 60% lực lượng lao động. Tuy nhiên, thực trạng tài chính của các DNNVV tại Việt Nam đang gặp phải những thách thức lớn.

Giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch quốc tế tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch quốc tế tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

Cụ thể, các DNNVV chỉ có thể tiếp cận được dưới 9% tài chính bền vững. Thậm chí, tín dụng xanh trên toàn thị trường cũng chỉ chiếm khoảng 4,5% tổng dư nợ. Điều này cho thấy sự chênh lệch đáng kể giữa tầm quan trọng của DNNVV với khả năng tiếp cận nguồn tài chính của它们.

(Thanh nhỏ màu đen biểu thị tỷ lệ tiếp cận của doanh nghiệp siêu nhỏ (12%) trong cột Việt Nam).
(Thanh nhỏ màu đen biểu thị tỷ lệ tiếp cận của doanh nghiệp siêu nhỏ (12%) trong cột Việt Nam).

Một số nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này có thể kể đến như: các DNNVV gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn tài chính truyền thống cũng như tài chính bền vững. Tỷ lệ DNNVV tiếp cận tín dụng ngân hàng đã giảm từ 32% vào năm 2019 xuống còn 28% vào năm 2023.

Giải pháp thúc đẩy tài chính bền vững đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Giải pháp thúc đẩy tài chính bền vững đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

Không chỉ vậy, tín dụng xanh tại Việt Nam hiện chỉ chiếm 4,5% tổng dư nợ tín dụng, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực. Ba rào cản chính khiến các DNNVV không thể tham gia vào tài chính bền vững gồm: thiếu kiến thức về môi trường, xã hội và quản trị (ESG); sự không thống nhất trong thực thi chính sách giữa các địa phương; và sự khan hiếm các sản phẩm tài chính phù hợp.

Đổi mới giáo dục đại học: Nền tảng cho phát triển bền vững ở Việt Nam
Đổi mới giáo dục đại học: Nền tảng cho phát triển bền vững ở Việt Nam

Trước những thách thức đó, để tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy tiếp cận tài chính bền vững cho DNNVV, các chuyên gia đề xuất xây dựng khung chính sách gồm 4 trụ cột quan trọng. Thứ nhất là hoàn thiện khung pháp lý để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc tiếp cận tài chính bền vững. Thứ hai, cần tiến hành cải cách tài chính nhằm đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ tài chính dành cho DNNVV. Thứ ba, nâng cao năng lực của các DNNVV để chúng có thể đáp ứng các yêu cầu về tài chính bền vững.

Trách nhiệm môi trường: Từ nhận thức của doanh nghiệp tới hành vi của nhân viên
Trách nhiệm môi trường: Từ nhận thức của doanh nghiệp tới hành vi của nhân viên

Cuối cùng, việc phát triển hạ tầng thị trường là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các DNNVV và tăng cường khả năng tiếp cận tài chính bền vững. Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp này, hy vọng rằng việc huy động tài chính bền vững cho DNNVV sẽ được đẩy mạnh.

Đồng thời, điều này cũng góp phần tăng tỷ lệ tiếp cận tín dụng xanh, không chỉ hỗ trợ tài chính cho DNNVV mà còn đóng góp vào chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Chiến lược này bao gồm chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng toàn diện và trung hòa carbon, giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.

Chính vì vậy, việc hỗ trợ DNNVV tiếp cận tài chính bền vững không chỉ là một chính sách tài chính đơn thuần mà còn là nền tảng quan trọng cho sự phát triển lâu dài và bền vững của nền kinh tế Việt Nam.

]]>
Doanh nghiệp nhỏ và vừa làm nên vòng tròn thịnh vượng kinh tế sáng tạo https://kinhtekinhdoanh.com/doanh-nghiep-nho-va-vua-lam-nen-vong-tron-thinh-vuong-kinh-te-sang-tao/ Mon, 21 Jul 2025 09:48:41 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/doanh-nghiep-nho-va-vua-lam-nen-vong-tron-thinh-vuong-kinh-te-sang-tao/

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (DNNVSN) tại Việt Nam đang đóng một vai trò quan trọng trong việc kiến tạo một hệ sinh thái thời trang bền vững. Dựa trên di sản văn hóa và tinh thần sáng tạo của cộng đồng, họ đang góp phần tạo nên một bức tranh sáng tạo mới với những nét đặc sắc và phong phú.

Động lực sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam - ảnh 2
Động lực sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam – ảnh 2

Tại Việt Nam, nền kinh tế sáng tạo đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ. Với chỉ thị số 30/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành tháng 8/2024, ưu tiên đầu tư vào nguồn nhân lực và công nghệ cho các ngành công nghiệp văn hóa, như thời trang, thủ công mỹ nghệ và thiết kế. Chính phủ đang nỗ lực tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các ngành công nghiệp sáng tạo, trong đó có ngành thời trang.

Động lực sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam - ảnh 3
Động lực sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam – ảnh 3

Các DNNVSN tại Việt Nam đang đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành thời trang. Mặc dù các DNNVSN thường được xếp trong nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng họ chiếm khoảng 80% tổng số doanh nghiệp ngành dệt may tại Việt Nam và tạo công ăn việc làm cho hơn ba triệu lao động. Họ hoạt động theo mô hình gia đình hoặc nhóm nhỏ, không sở hữu nhà xưởng quy mô lớn hay ngân sách tiếp thị đáng kể.

Động lực sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam - ảnh 4
Động lực sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam – ảnh 4

Một nghiên cứu gần đây của PGS Donna Cleveland và Nghiên cứu sinh Lâm Hồng Lan thuộc Khoa Truyền thông và Thiết kế, RMIT Việt Nam, đã chỉ ra rằng các DNNVSN đang âm thầm kiến tạo điều mà nhóm nghiên cứu gọi là “vòng tròn thịnh vượng”. Trong đó, bốn trụ cột: kinh tế, văn hóa, môi trường và xã hội không chỉ phát triển song hành mà còn đan xen, kết nối sâu sắc. Các doanh nghiệp như Linht Handicraft, Kilomet109, Môi Điên, KHAAR và Dòng Dòng đã thể hiện cách mà DNNVSN có thể duy trì được quy mô sản xuất nhỏ, gắn liền với cộng đồng, trong khi vẫn thúc đẩy đổi mới sáng tạo mang tính bền vững và đậm đà bản sắc văn hóa.

Tuy nhiên, nghiên cứu cũng nêu bật những rào cản mang tính hệ thống mà các DNNVSN trong lĩnh vực thời trang tại Việt Nam đang phải đối mặt. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô do hạn chế về vốn và cơ sở hạ tầng. Điều này đòi hỏi sự hỗ trợ từ chính phủ và các tổ chức để giúp các DNNVSN vượt qua những thách thức này.

Để xây dựng một nền kinh tế sáng tạo thịnh vượng, nhóm nghiên cứu đã đề xuất ba định hướng chính sách nhằm hỗ trợ DNNVSN một cách hiệu quả và bền vững. Đó là tăng cường giáo dục thời trang, đầu tư vào không gian công cộng và cải cách hành chính và tài chính. Nếu được tạo điều kiện và chính sách hỗ trợ phù hợp, DNNVSN hoàn toàn có thể đóng vai trò nòng cốt trong việc hình thành một nền kinh tế sáng tạo đậm đà bản sắc văn hóa tại Việt Nam.

Họ phản ánh một xu thế toàn cầu hướng tới sự bền vững và cho thấy tiềm năng của các xưởng may nhỏ, cộng đồng dân tộc thiểu số và những nhà thiết kế trẻ đầy tâm huyết đang cùng nhau xây dựng một hệ sinh thái thời trang mới. Với sự hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi, DNNVSN có thể tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của ngành thời trang Việt Nam và góp phần vào sự thịnh vượng của nền kinh tế sáng tạo.

]]>