Thị trường trong nước – Kinhtekinhdoanh.com https://kinhtekinhdoanh.com Cập nhật tin tức kinh tế, phân tích thị trường, chiến lược kinh doanh và câu chuyện thành công. Tue, 23 Sep 2025 02:56:05 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhtekinhdoanh/2025/08/kinhtekinhdoanh.svg Thị trường trong nước – Kinhtekinhdoanh.com https://kinhtekinhdoanh.com 32 32 Thị trường trong nước chưa khai thác hết tiềm năng tiêu thụ thủy sản https://kinhtekinhdoanh.com/thi-truong-trong-nuoc-chua-khai-thac-het-tiem-nang-tieu-thu-thuy-san/ Tue, 23 Sep 2025 02:56:03 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/thi-truong-trong-nuoc-chua-khai-thac-het-tiem-nang-tieu-thu-thuy-san/

Ngày 1/8, tại Hà Nội, Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương) đã phối hợp với Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) và Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam tổ chức Hội nghị thúc đẩy tiêu thụ thủy sản phục vụ nhu cầu trong nước. Hội nghị này nhằm tìm kiếm giải pháp để tăng cường tiêu thụ thủy sản trong nước, trong bối cảnh xuất khẩu thủy sản đang đối mặt với nhiều khó khăn.

Ông Trần Hữu Linh phát biểu tại hội nghị
Ông Trần Hữu Linh phát biểu tại hội nghị

Phát biểu khai mạc Hội nghị, ông Trần Hữu Linh, Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, nhấn mạnh vai trò đặc biệt của thị trường trong nước trong bối cảnh xuất khẩu đối mặt nhiều khó khăn. Ông cho biết, chỉ trong vài tháng qua, thị trường nội địa đã có nhiều chuyển biến, cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ từ Chính phủ và các bộ, ngành. Đây là thời điểm quan trọng để nhìn nhận lại vai trò của thị trường nội địa như một dư địa chiến lược giúp doanh nghiệp phát triển bền vững.

Theo ông Linh, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 10 tỷ USD, đạt 106% kế hoạch và tăng hơn 12% so với năm 2023. Tuy nhiên, trước biến động từ các thị trường lớn như Mỹ, cùng áp lực cạnh tranh từ nhiều quốc gia, việc mở rộng tiêu thụ nội địa là hướng đi tất yếu. Ông cũng dẫn chứng, ngành thủy sản giải quyết tới 3-4 triệu lao động, chiếm khoảng 4-5% GDP, nhưng tiêu dùng trong nước vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.

Bình quân mỗi người Việt Nam tiêu thụ khoảng 40kg thủy sản/năm – thấp hơn đáng kể so với mức 60-70kg ở các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Malaysia. Ông Linh nhấn mạnh, cần có tư duy bài bản, chiến lược dài hạn, từ sản xuất đến phân phối, nhằm mở rộng dung lượng tiêu thụ trong nước.

Cục trưởng Linh chỉ rõ, hiện nay tỷ trọng thuỷ sản nội địa chiếm khoảng 60-70% với các mặt hàng chủ lực bao gồm tôm, cá basa, mực, cá biển; thuỷ sản nhập khẩu vẫn chiếm từ 30-40%. Để khai thác hết tiềm năng của thị trường nội địa, tăng thị phần tiêu thụ thủy sản sản xuất trong nước, các doanh nghiệp sản xuất thủy sản cần quan tâm phát triển kênh phân phối sản phẩm tại thị trường trong nước, đồng thời cần có sự đồng hành và hỗ trợ tích cực của các doanh nghiệp phân phối lớn.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) cũng cho rằng, thị trường nội địa đang ngày càng khẳng định vai trò chiến lược trong mục tiêu phát triển bền vững và dài hạn của doanh nghiệp. Việc gắn tiêu thụ nội địa với xuất khẩu, có thể giúp doanh nghiệp tối ưu hóa chi phí, nguyên liệu, từ đó tăng được sức cạnh tranh.

Tuy nhiên, thực tế, rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu bài bản, có chỗ đứng trên thị trường quốc tế, nhưng lại khó cạnh tranh trên sân nhà. Thị trường thủy hải sản hiện nay đang thiếu minh bạch về chất lượng, khi rất nhiều nhà máy sản xuất nội địa đầu tư thấp, giá thành rẻ. Trong khi doanh nghiệp xuất khẩu làm bài bản, chi phí cao (do đầu tư nhà máy đạt chứng chỉ quốc tế, nhân công, thuế…), không thu hút được người tiêu dùng, dù chất lượng vượt trội.

Hội nghị cũng ghi nhận nhiều ý kiến từ phía doanh nghiệp phân phối và các công ty sản xuất, chế biến thủy sản về những khó khăn đang gặp phải khi phát triển thị trường nội địa. Không ít doanh nghiệp cho rằng, chi phí logistics, vận chuyển và bảo quản thủy sản trong nước vẫn còn cao, khiến giá thành sản phẩm khó cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Nhiều ý kiến cũng đề cập đến tình trạng thiếu hụt hạ tầng chợ đầu mối chuyên biệt, mạng lưới phân phối chưa đồng bộ giữa các vùng miền, gây cản trở lớn trong việc mở rộng kênh tiêu thụ.

Cục trưởng Trần Hữu Linh nhấn mạnh, thị trường nội địa không chỉ là “bệ đỡ” trong bối cảnh xuất khẩu gặp khó, mà cần được xác định là một chiến lược dài hạn, mang tính nền tảng đối với sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Ông Linh cho rằng các doanh nghiệp không thể tiếp tục xem tiêu dùng trong nước là kênh phụ, hay nơi tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu dư thừa, mà cần chủ động xây dựng chiến lược riêng cho thị trường này, với đầy đủ các khâu từ nuôi trồng, sản xuất, phân phối đến hậu kiểm.

Cũng theo Cục trưởng, việc phát triển thị trường trong nước không thể thành công nếu thiếu sự thấu hiểu hành vi người tiêu dùng và tính đặc thù vùng miền. Vì vậy, doanh nghiệp cần tăng cường nghiên cứu thị hiếu, khẩu vị và xu hướng tiêu dùng mới, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm để tiếp cận rộng rãi hơn các nhóm khách hàng, đặc biệt là tầng lớp trung lưu đang gia tăng nhanh chóng.

]]>
Thị trường nhôm Việt Nam: Cơ hội lớn nhưng cần gỡ rào cản https://kinhtekinhdoanh.com/thi-truong-nhom-viet-nam-co-hoi-lon-nhung-can-go-rao-can/ Sun, 20 Jul 2025 03:47:09 +0000 https://kinhtekinhdoanh.com/thi-truong-nhom-viet-nam-co-hoi-lon-nhung-can-go-rao-can/

Ngành nhôm Việt Nam đang đứng trước một tương lai đầy hứa hẹn nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức. Trong thập kỷ qua, ngành nhôm đã chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể với số lượng nhà máy, quy mô sản xuất và tổng sản lượng đều tăng gấp đôi. Theo số liệu mới nhất, vào năm 2024, tổng sản lượng các loại nhôm đã đạt gần 1,5 triệu tấn, tương đương 4,2 tỷ USD, đánh dấu mức tăng trưởng 14,5% so với năm 2023. Trong đó, nhôm định hình chiếm 43,3% với 650 nghìn tấn, và nhôm tái chế chiếm 16,7% với hơn 250 nghìn tấn.

Ngành nhôm Việt Nam hiện có nhiều lợi thế để phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Với 17 Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia, đặc biệt là Hiệp định RCEP, EVFTA, CEPA, ngành nhôm Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường xuất khẩu với thuế nhập khẩu nguyên liệu 0% và thuế xuất khẩu với hầu hết các sản phẩm hoàn chỉnh cho người dùng cuối 0%. Hơn nữa, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 9 quốc gia lớn như Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản… cũng mở ra cơ hội không giới hạn cho ngành nhôm Việt Nam trong việc mở rộng thị trường và tăng cường hợp tác quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, ngành nhôm cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Tình trạng dư thừa công suất trong nhiều năm gần đây vẫn chưa được cải thiện, và thị trường bất động sản và xây dựng đang tạm thời ngưng trệ dẫn đến nhu cầu nhôm xây dựng giảm sút. Các nhà máy ép đùn phải điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh đến đầu quý II/2025. Thêm vào đó, chi phí đầu vào cho sản xuất liên tục tăng, trong khi giá bán nhôm định hình trên thị trường không đủ bù đắp chi phí đầu vào, dẫn đến lợi nhuận của các nhà sản xuất giảm mạnh trong 2-3 năm qua.

Để vượt qua những thách thức này, ngành nhôm cần đẩy mạnh việc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, và quản trị ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị). Việc ổn định chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu nhôm Việt nhằm chiếm lĩnh thị trường và thay thế hàng nhập khẩu cũng là điều cần thiết. Điều chỉnh chính sách phù hợp như giảm thuế VAT, giảm thuế xuất khẩu 5%, hướng dẫn thực hành ESG, và hỗ trợ tín dụng xanh sẽ giúp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Ngoài ra, việc mở rộng thị trường, tận dụng các Hiệp định thương mại tự do (FTA), học hỏi từ các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, và đào tạo nhân lực kỹ thuật đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh cũng đóng vai trò quan trọng.

Dự báo đến 2030, nhu cầu về vật liệu nhôm sẽ tăng 25% so với hiện tại. Đặc biệt, nhôm xây dựng và công trình sẽ chứng kiến tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, khoảng 13% trong giai đoạn 2024-2029. Theo Bộ Xây dựng, nhôm xây dựng có mức tăng trưởng 25% trong 5 năm tới nhờ vào các chính sách tháo gỡ cho các dự án đầu tư bất động sản. Điều này cho thấy ngành nhôm Việt Nam có tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai nếu có thể vượt qua các thách thức và tận dụng tốt các cơ hội.

]]>